Nhà đầu tư mạo hiểm tiết lộ lý do vì sao Việt Nam sẽ là thị trường mục tiêu trong năm 2021
Wanying Zhang, giám đốc đầu tư của Qualgro, chia sẻ suy nghĩ của cô về đại dịch, các doanh nghiệp B2B và thiết lập trạng thái bình thường mới.
Một ngày của một VC trong đại dịch COVID-19
Thật sự rất khó để mô tả một ngày ‘điển hình” của một nhà đầu tư mạo hiểm (VC) như thế nào ngay cả trước đại dịch, vì mỗi ngày đều khác nhau. Sự thay đổi đáng kể nhất chắc chắn là chúng tôi không thể gặp gỡ trực tiếp với bất kỳ ai, trong khi những mối quan hệ đó thực sự rất quan trọng đối với các VC.
Chẳng hạn, các tương tác trực tiếp cho phép chúng tôi có những cuộc trò chuyện có ý nghĩa hơn nhiều với các doanh nhân, vì vậy chúng tôi có thể đánh giá xem liệu người khởi nghiệp và VC có phù hợp hay không. Thông thường, sự phù hợp đó không chỉ giữa các doanh nghiệp, mà còn giữa người với người. Mặc dù chúng ta vẫn có thể nói chuyện trực tuyến và xem xét tất cả các số liệu, yếu tố tương tác quan trọng nhất bị thiếu đặc biệt là khi chúng ta đang tìm cách xây dựng các mối quan hệ kéo dài hàng thập kỷ.
Tuy nhiên, tùy thuộc vào thời gian mọi người phải làm việc từ xa, các công ty khởi nghiệp và VC có thể phải thích nghi với cách gây quỹ mới, có thể diễn ra trực tuyến.
Các yếu tố nhà đầu tư tìm kiếm ở startup
Thông thường, trong vòng trước hạt giống hoặc hạt giống, tài sản có giá trị nhất (hoặc thường là duy nhất) mà một startup có là nhóm sáng lập. Do đó, đội sáng lập chắc chắn là khía cạnh quan trọng nhất đối với chúng tôi. Tất nhiên, chúng tôi sẽ đánh giá tất cả các yếu tố khác của doanh nghiệp như chúng tôi thường làm trong các vòng gọi vốn giai đoạn sau (tức là thị trường, bối cảnh cạnh tranh, v.v.), nhưng những yếu tố này gần như chắc chắn sẽ thay đổi đáng kể khi doanh nghiệp phát triển.
Wanying Zhang, giám đốc đầu tư của Qualgro
Do đó, điều chúng tôi muốn có là một niềm tin, rằng liệu đây có phải là đội có thể phát triển vượt bậc trong ngành này hay không – và liệu họ có những đặc điểm phù hợp với nhưng tiêu chí chúng tôi đánh giá cao như: giá trị, tầm nhìn, khả năng phục hồi, và xây dựng đội ngũ của người sáng lập và tư duy luôn học hỏi.
Chúng tôi không có yêu cầu cố định về cổ phần tối thiểu, mặc dù chúng tôi cố gắng tránh lấy cổ phần quá nhỏ. Đối với các công ty giai đoạn đầu, chúng tôi thường muốn có ít nhất 10 phần trăm cổ phần với đại diện trong hội đồng quản trị.
Đối phó với sự hối tiếc
Chúng tôi chắc chắn có hối tiếc vì đã bỏ lỡ các khoản đầu tư vào các startup kỳ lân. Nhưng cũng chính từ những tiếc nuối này mà chúng ta không ngừng rút ra bài học cho mình – những điều mà chúng ta đã bỏ lỡ khi có được những cơ hội đó.
Câu trả lời cho những lần bỏ lỡ thường xuyên là vì chúng tôi tập trung quá nhiều vào doanh nghiệp (mô hình kinh doanh, lực kéo, v.v.) thay vì tiềm năng thực sự của những người sáng lập đặc biệt đó.
Những sai sót này cho phép chúng tôi liên tục tinh chỉnh khung đánh giá các công ty và người sáng lập để có một góc nhìn tốt hơn hướng tới tương lai.
Suy nghĩ về các doanh nghiệp B2B
Chúng tôi không cố định lĩnh vực đầu tư nhưng tập trung vào hai ngành chính là Dữ liệu/AI và SaaS. Thông thường, các công ty của chúng tôi là liên ngành – ví dụ: Martech ứng dụng AI cho các ngành công nghiệp khác nhau, SaaS gắn kết nhân viên cho các ngành công nghiệp khác nhau.
Về thị trường, trong khu vực Đông Nam Á, trọng tâm chính của chúng tôi là:
- Các doanh nghiệp B2B chủ yếu ở Singapore, vì đây là thị trường tiên tiến nhất của B2B do sự tập trung cao của các khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp có liên quan, v.v.
- Chúng tôi cũng sẵn sàng xem xét một số cơ hội B2C chiến lược ở Indonesia, Việt Nam và các quốc gia khác, vì bản chất của hệ sinh thái khởi nghiệp ở các quốc gia này dựa vào B2C nhiều hơn. Trên thực tế, Việt Nam sẽ là một quốc gia nơi chúng tôi sẽ dành nhiều thời gian và nguồn lực hơn vào năm 2020 và 2021, và chúng tôi xem xét linh hoạt các lĩnh vực và mô hình kinh doanh khác nhau. Cuối cùng, chúng tôi muốn hỗ trợ các doanh nhân xuất sắc ở Đông Nam Á một phần trong danh mục đầu tư, vì vậy chúng tôi có thể khá linh hoạt khi có cơ hội lớn.
Thông thường người ta cho rằng các công ty B2B dễ dàng kiếm được lợi nhuận hơn so với các công ty B2C. Sự khác biệt quan trọng nhất ở đây là chi phí mua lại mỗi khách hàng là bao nhiêu.
Hầu hết các doanh nghiệp B2B thường có nhiều cách tiếp cận khách hàng mục tiêu hơn so với các doanh nghiệp B2C, thường cần ngân sách tiếp thị đáng kể mới có được khách hàng. Tất nhiên, có những trường hợp ngoại lệ, nhưng đây là lý do tại sao các công ty B2B thường có chi phí/doanh thu tốt hơn.
Khả năng phục hồi của công ty phụ thuộc vào lĩnh vực cụ thể mà doanh nghiệp đang hoạt động – có các doanh nghiệp B2B (ví dụ như bán lẻ) bị ảnh hưởng rất nghiêm trọng bởi đại dịch này, trong khi có các công ty B2C (ví dụ như thực phẩm / tạp hóa giao hàng, giáo dục, chăm sóc sức khỏe kỹ thuật số) lại được hưởng lợi trong giai đoạn này. Đấy là nếu nói về lực kéo doanh thu.
Quan trọng hơn cả, khả năng phục hồi của một doanh nghiệp trong đại dịch này phụ thuộc vào cách đội ngũ quản lý có thể kiểm soát chi phí tăng hay giảm để phù hợp với doanh thu.
Xu hướng mới khi trở lại bình thường
Chắc chắn có những xu hướng xuất hiện trong đại dịch, có thể kể một số ví dụ như: giao tiếp trực tuyến, thực phẩm hoặc giao hàng tạp hóa, giáo dục trực tuyến, giải trí trực tuyến…. Chúng tôi tin rằng một số trong những xu hướng này sẽ thay đổi vĩnh viễn cách con người sống, trong khi một số khác sẽ là tạm thời.
Những gì chúng tôi quan tâm là những gì sẽ vẫn là nhu cầu trong vòng 5 đến 10 năm tới – nói cách khác, các nguyên tắc cơ bản của các doanh nghiệp, thay vì quá tập trung vào những gì đã xuất hiện trong đại dịch này.
Tú Oanh